Top 15+ Câu chuyện cổ tích hay nhất việt nam bạn nên đọc
trong khoảng xa xưa, ai cũng nghe trong lời đề cập của bà của mẹ về cô Tấm nết na, về Thánh Gióng kiêu dũng. Những câu chuyện cổ tích luôn theo ta lớn lên hàng ngày từ thuở còn nằm nôi. Cộng có lời ru những câu chuyện nuôi tâm hồn ta to lên. Nhưng lúc trưởng thành, chẳng mấy người nào còn nhớ 1 góc tuổi thơ đã nuôi ta lớn lên. Và sau đây là các câu chuyện cổ tích gợi nhớ về tuổi thơ hay nhất mà mình muốn giới thiệu đến Anh chị.
Tấm Cám
Tấm và Cám là hai chị em cộng cha khác mẹ. Ba má mất sớm, Tấm phải ở cùng với mẹ kế (mẹ của Cám). Khi mà Cám được nâng niu chiều chuộng thì Tấm lại phải nặng nhọc khổ cực, bị dì la mắng và đối xử thậm tệ. “Tấm phải làm cho lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc”.
một hôm, theo lời dặn của dì, Cám cộng Tấm ra ngoài đồng bắt tép. Vì phần thưởng là loại yếm đỏ hằng ao ước nên Tấm rất siêng năng mê mải bắt tôm tép giữa trời nắng nóng nực. Trong khi đó, Cám thì mải rong chơi đuổi hoa bắt bướm rồi xem nhẹ nhiệm vụ, kết quả là chiều về giỏ không có gì cả. Cám lừa Tấm xuống tắm ao và cướp hết số tôm tép mà Tấm đã chăm chỉ nỗ lực cả buổi mới bắt được. Tấm tủi thân và ngồi khóc một mình. Bụt thấy thương quá, hiện lên yên ủi trợ giúp, bảo Tấm có con cá bống còn sót lại về nuôi. Tấm hằng ngày chừa 1 phần cơm của mình, ra giếng gọi cá bống “ Bống bống bang bang lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” và lập tức cá hiện lên, đớp những hạt cơm vàng ngọc chắt chiu của cô Tấm. Mẹ con Cám âm mưu giảo hoạt vì ganh ghét nên rình được và hại chết con cá bống. Lần này, Bụt lại ra tay trợ giúp bằng cách thức chỉ Tấm bỏ xương cá vào lọ rồi đem cất dưới chân giường.
Nhà vua mở hội linh đình, ai ai cũng náo nức đi trẩy hội. Mẹ con Cám ko muốn Tấm đi dự hội bèn dở âm mưu bắt tấm nhặt một thúng thóc và gạo trộn lẫn. Bụt hiện lên, sai đàn chim sẻ nhặt giúp Tấm. Rồi bảo Tấm đào bốn cái chậu xương cá dưới giường lên. Bất thần thay, những mảnh xương cá trong khoảng trước đã biến thành y phục lộng lẫy, tỏa sáng,vừa vặn sở hữu thân hình của Tấm và nàng vui vẻ đi tham dự lễ hội.
Trong lúc vội vàng trở về, chẳng may Tấm vô ý đánh rơi một mẫu giày xuống sông. Tấm mò mãi mà ko được. Vua trông thấy mẫu giày nhỏ nhắn xinh đẹp và cảm lòng sở hữu chủ nhân, tức thì ra lệnh ai ướm thử vừa loại giày sẽ phát triển thành hoàng hậu. Toàn bộ mọi người trong kinh thành khi nghe tin đều phấn khởi nao nức tới thử giày, tìm kiếm hi vẳng trở nên vợ của người đứng đầu quốc gia. Nhưng rất nuối tiếc, tất cả đều ko vừa. Riêng tới lượt Tấm, đôi giày vừa khít. Vua cho mời nàng về cung và Tấm phát triển thành hoàng hậu.
Mẹ con Cám sau bao nhiêu chuyện vẫn căm thù Tấm và âm mưu hãm hại. Trong một dịp Tấm về giỗ cha, họ đã lén lút chặt đứt cây cau và hại chết Tấm. Cám vào cung tiến vua thay chị. Tấm tuần tự biến thành con chim hoàng anh, cây xoan, khung cửi, quả thị. Rút cuộc trở nên con gái của bà lão hàng nước. Khi nhà vua bất chợt đi qua đây và nhìn thấy Tấm, liền đón nàng về cung. Chấm dứt câu chuyện, mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng và Tấm sống hạnh phúc mãi mãi bên nhà vua.
Ý nghĩa nhân văn: Ở hiền sẽ gặp lành.
Cây tre trăm đốt
Ngày xưa sở hữu một chàng trai hiền hậu, khỏe mạnh tên là Khoai đi cày thuê cho vợ chồng ông phú hộ. Hai người này mang hứa: “Con chịu thương chịu khó làm cho lụng giúp ta, ba năm nữa ta sẽ gả con gái ta cho”.
Tin vào lời hứa hẹn, anh ra công làm việc ko ngại khó nhọc. Nhưng ba năm sau, trong khi ông nhà giàu đã với mọi thứ của cải, ông bèn giáo giở, ông đưa ra 1 điều kiện là phải mua được 1 cây tre trăm đốt để làm cho nhà cưới vợ thì ông mới gả con gái cho. Vì muốn có dịp để cưới con gái của chủ, anh bèn lên rừng nỗ lực mua được 1 cây tre trăm đốt. Tìm mãi ko thấy, anh thất vẳng ngồi khóc. Bỗng Bụt hiện lên và bảo anh đi tìm, chặt cho đủ 100 đốt tre rời rồi giúp anh bằng 2 câu thần chú: “khắc nhập, khắc nhập!” để gắn kết 100 đốt tre rời thành 1 cây tre trăm đốt và “khắc xuất, khắc xuất!” để tách các đốt tre ra.
Nhờ là các khúc tre rời nên anh cũng tiện lợi gánh về làng được. Về nhà, anh cho cha vợ ngày mai của mình xem cây tre trăm đốt. Không tin vào điều mắt mình nhận ra, ông nhà giàu sờ tay vào cây đếm từng khúc tre. Phép màu của Bụt đã hút ông dính luôn vào cây tre. Khi ông đồng ý giữ lời hứa, anh mới sực nhớ ra câu “khắc xuất” để giải thoát cho cha vợ của mình. Sợ hãi, ông phú hộ phải giữ lời hẹn, gả con gái cho anh dân cày. Rút cục, anh và con gái ông phú hộ sống với nhau hạnh phúc mãi mãi.
Ý nghĩa nhân văn: Chỉ cần siêng năng, chuyên cần, chịu thương chịu khó thì kì tích luôn xuất hiện
Hồn Trương Ba – Da Hàng giết thịt
Trương Ba, sắp 60 tuổi – là một người khiến cho vườn thấp bụng, đặc trưng rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến cho ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên thiên tào kiện. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng giết mổ ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại
Trú nhờ thể xác hàng làm thịt, hồn Trương Ba gặp tất cả phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng giết thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba càng ngày càng lích kích. Đặc biệt, sống bằng thể xác hàng giết mổ, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và các nhu cầu vốn xa lạ có ông. Gay nhất là chị hàng giết mổ đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực thụ của chị. Lí trưởng nhân ấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc chí, lấn át, khinh thường bố. Trái lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba chẳng thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô đau khổ.
Trước nghịch cảnh đó, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng làm thịt, cũng không hài lòng nhập vào xác cu ghen tuông, cương quyết ưng ý mẫu chết.
Ý nghĩa nhân văn: Vợ chồng phải thuỷ chung, son sắt sở hữu nhau.
Sự tích dã tràng xe cát biển Đông
Dã Tràng vốn là một chàng trai rẻ bụng, nhờ ra tay giúp 1 con rắn đực mà được tặng 1 viên ngọc quý. Về sau cũng vì viên ngọc ấy cộng sự tốt bụng của mình, Dã Tràng lại bị dân làng bội phản, đàn quạ hàm oan rắp tâm hãm hại. Nhưng rồi lại nhờ viên ngọc cậu ta đã thoát tội diệt thân. Về sau, Dã Tràng vì cứu mạng một đôi ngỗng mà được tặng thêm một viên ngọc quý.
Nhờ có viên ngọc có thể khuấy đảo Long cung mà anh được Long Vương ban cho vàng bạc châu báu sở hữu điều kiện không bao giờ với viên ngọc ấy đi náo loạn các vùng nước. Tưởng hình như mang hết mọi thứ trong tay, rút cục, vì hai viên ngọc quý mà người vợ bỏ đi theo lời dụ dỗ của Long Vương. Bởi nuối tiếc ngọc quý, tức giận vợ mình và Long Vương, Dã Tràng cố gắng đem cát lấp biển để đắp thành đường đi đòi lại ngọc. Kết cục, cậu ta chết đi, hóa thành con dã tràng, ngày ngày lăn cát đi lấp biển, nhưng rồi sóng biển lại xô cho tan biến.
Ý nghĩa nhân văn: Con người mà với lòng tham vô đáy khiến cho chuyện xấu thì sẽ bị trừng trị thích đáng.
Sự tích cây vú sữa
Ngày xưa, với 1 cậu bé được mẹ nuông chiều nên rất nghịch và yêu thích chơi. 1 Lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày, mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời kì trôi qua mà cậu vẫn ko về. Vì quá đau buồn và kiệt lực, mẹ cậu gục xuống… Không biết cậu đã đi bao lâu. 1 Hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ to hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ: “Phải rồi, lúc mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, lúc mình bị đứa khác nạt, mẹ vẫn bênh mình, về sở hữu mẹ thôi”. Cậu liền mua đường về nhà… Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng ko thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:
“Mẹ ơi, mẹ đi – đâu rồi, con đói quá !” Cậu bé gục xuống, rồi ủ ấp một cây xanh trong vườn mà khóc. Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Trong khoảng những cành lá, các đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh nhấp nhánh. Cây nghiêng cành, 1 quả to rơi vào tay cậu bé. Cậu bé cắn 1 miếng thật to. Chát quá Quả thứ 2 rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp nói quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một mẫu sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ… Cậu bé ghẹ môi hứng lấy chiếc sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ. Cây rung chuyển cành lá, thì thào:
“Ẳn trái ba lần mới biết trái ngon
Con mang khôn lớn mới hay lòng mẹ”
Cậu oà lên khóc. Nhận ra mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá 1 mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ấp ủ lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Nước mắt cậu rơi xuống gốc cây. Cây xòa cành ôm cậu, rung chuyển cành lá như tay mẹ âu yếm vỗ về. Cậu nhắc cho mọi người nghe chuyện về người mẹ và nỗi hối hận của mình… Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, người nào cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.
Ý nghĩa nhân văn: Con dòng phải hiếu thảo có cha mẹ. Tình mẹ là bao la, vĩnh cửu nhất.
Tích Chu
Ngày xưa, có 1 bạn tên là Tích Chu. Cha mẹ Tích Chu mất sớm, Tích Chu ở mang bà.
Hàng ngày bà phải làm việc vần vật kiếm tiền nuôi Tích Chu, với thức gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu. Ban đêm, lúc Tích Chu ngủ thì bà thức quạt. Thấy bà thương Tích Chu, sở hữu người bảo:
– Bà ơi! Lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển. Lớn lên, Tích Chu sẽ ko lúc nào quên ơn bà.
Thế nhưng lớn lên, Tích Chu lại chẳng thương bà. Bà thì suốt ngày làm cho việc vất vả, còn Tích Chu suốt ngày rong chơi. Vì khiến cho việc khó nhọc, ăn uống lại khem khổ nên bà bị ốm. Bà lên cơn sốt nhưng chẳng người nào chăm nom. Tích Chu mãi rong chơi mang bạn bè, chẳng nghĩ gì đến bà đang ốm. 1 Buổi trưa, trời nóng bức, cơn sốt lên cao, bà khát nước quá liền gọi:
– Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát khô cổ rồi!
Bà gọi một lần, 2 lần…rồi ba lần nhưng vẫn không thấy Tích Chu đáp lại. Mãi sau Tích Chu thấy đói mới chạy về nhà kiếm cái ăn. Tích Chu sửng sốt cực kỳ thấy bà biến thành chim và vỗ cánh bay lên trời. Tích Chu hoảng quá kêu lên:
– Bà ơi! Bà đi đâu? Bà ở lại mang cháu. Cháu sẽ có nước cho bà, bà ơi!
– Cúc cu … cu! Cúc … cu cu! Chậm mất rồi cháu ạ, bà khát quá chẳng thể chịu nổi phải hóa thành chim để bay đi kiếm nước. Bà đi đây, bà không về nữa đâu!
kể rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá chạy theo bà, cứ nhằm theo hướng chim bay mà chạy. Rốt cuộc Tích Chu gặp chim đang uống nước ở 1 loại suối mát. Tích Chu gọi:
– Bà ơi! Bà trở về sở hữu cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ giúp đỡ bà, cháu sẽ không khiến cho bà buồn nữa!
– Cúc …cu…cu, muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu!
Nghe chim kể, Tích Chu òa khóc, Tích Chu thương bà và ăn năn. Giữa khi đấy, có một bà tiên hiện ra, bà bảo Tích Chu:
– nếu như cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Con đường lên suối Tiên xa lắm, cháu với đi được không?
Nghe bà Tiên kể, Tích Chu mừng ranh khôn xiết, vội vàng hỏi đường tới suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay.
Trải qua đa dạng hôm mai lặn lội trên đường, vượt qua toàn bộ nghiêm trọng, rút cuộc Tích Chu đã lấy được nước suối sở hữu về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu.
trong khoảng ấy, Tích Chu nhiệt liệt yêu thương coi ngó bà.
Ý nghĩa nhân văn: con cháu phải hiếu thảo sở hữu ông bà.
Sự tích bông hoa cúc trắng
Ngày xưa có một cô bé sống cộng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là 1 bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật ko may mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên không có tiền tậu thuốc chữa, và cô bé cực kỳ buồn bã.
một lần đang ngồi khóc bên tuyến phố bỗng với một ông lão đi qua thấy lạ bèn đừng lại hỏi lúc biết sự tình ông già nói với cô bé:
– Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lây một bông hoa độc nhất trên đấy. Bông hoa đấy mang bao nhiêu cánh thì tức thị mẹ cháu sống được bằng ấy ngày.
Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới sắm thấy bông hoa trắng ấy. Phải cạnh tranh lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa, nhưng lúc đếm chỉ sở hữu 1 cánh 2 cánh ba cánh bốn cánh. Chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bàng đấy ngày thôi sao? Không đành lòng cô liền sử dụng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa to thành các cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo ấy mà phổ quát cánh dần lên phổ biến tới mức ko còn đếm được nữa. Trong khoảng đó trần thế gọi bông hoa đó là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu hạnh của cô bé đó dành cho mẹ mình.
Ý nghĩa nhân văn: con cháu phải hiếu hạnh, kính trọng với ông bà.
Sọ Dừa
Ngày xửa ngày xưa với đôi vợ chồng già hi hữu muộn con dòng, phải đi ở cho nhà phú ông. Một hôm bà vợ vào rừng hái củi, uống nước trong cái sọ dừa, về nhà sở hữu mang, ít lâu sau sinh ra 1 đứa bé dị thường, không chân ko tay, tròn như 1 quả dừa. Thấy đứa bé biết kể, bà giữ lại nuôi và đặt luôn tên là Sọ Dừa.
Thương mẹ vất vả, Sọ Dừa nhận chăn đàn bò nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào cũng béo mượt. Ba cô con gái nhà phú ông thay nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kênh kiệu thường hất hủi Sọ Dừa, chỉ với cô út đối đãi mang cậu đàng hoàng.
Phát hiện ra vẻ đẹp bên trong cái vẻ dị thường của Sọ Dừa, cô út đem lòng thương yêu. Sọ Dừa nhờ mẹ tới nhà phú ông hỏi vợ. Phú ông thách cưới thật lo nhưng thấy Sọ Dừa mang đủ đồ thách cưới tới, đành phải gả cô út cho chàng. Ngày cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trẻ trai đẹp khiến cho 2 cô chị cực kỳ tị tức.
Nhờ chăm chi đèn sách Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi, sứ nước ngoài. Trước khi đi chàng đưa cho vợ 1 hòn đá lửa, 1 con dao và 2 quả trứng gà để phòng ngừa tai hoạ.
Sọ Dừa đi vắng, hai người chị sắm bí quyết hãm hại cô út, đẩy cô xuống biển hòng cướp chồng em. Nhờ có các thiết bị chồng đưa cho, cô út thoát chết, được chồng cứu trên phố đi sứ về. 2 Vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị trinh nữ bỏ nhà đi biệt tăm.
Ý nghĩa nhân văn: Ở hiền ắt gặp lành.
Thánh Gióng
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng mang cặp vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn và lừng danh là phúc đức nhưng ko mang con. Một hôm, bà vợ đang làm ruộng thấy một vết chân to liền ướm chân vào. Về nhà bà mang thai và sau mười 2 tháng thì sinh ra 1 bé trai tuấn tú khôi ngô. Điều kì lạ là mãi lên ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết đi, chảng biết đề cập, biết cười.
khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi, vua Hùng cho người đi mua tài năng cứu nước. Cậu bé đựng tiếng trước tiên và cũng là lời xin được đi đánh giặc. Cậu bé đề nghị sứ giả về tâu vua mua cho cậu ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Từ đấy cậu to nhanh như thổi. Sau khi ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà do bà con hàng xóm gom góp, cậu bé vươn vai thành 1 tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra trận diệt giặc. Trong lúc đánh giặc, roi sắt bị gãy, tráng sĩ nhổ các bụi tre ven tuyến đường khiến khí giới đánh giặc.
Dẹp xong giặc Ân, tráng sĩ 1 mình 1 ngựa lên đỉnh núi rồi bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn tráng sĩ, nhân dân lập đền thờ, hàng năm công ty hội làng để hoài tưởng. Những dấu tích của trận đánh năm xưa vẫn còn lưu lại trên mặt đất, trên những bụi tre nơi cậu bé diệt giặc.
Ý nghĩa nhân văn: Yêu quốc gia, yêu dân tộc Việt Nam.
Sơn Tinh – Thuỷ Tinh
Hùng Vương thứ mười tám với 1 người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính tình hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng 1 người chồng xứng đáng. Tới cầu hôn với 2 vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng.
1 người là Sơn Tinh – chúa vùng non cao. 1 Người là Thuỷ Tinh – chúa vùng nước thẳm. Để tuyển lựa được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện: “Ngày mai người nào với lễ phẩm gồm: một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh bác bỏ, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín lông hồng, mỗi thứ một đôi đến trước thi ta sẽ gả con gái cho”.
Hôm sau, Sơn Tinh với lễ vật tới truớc, cưới được Mị Nương. Thuỷ Tinh tới sau, không lấy được vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi đua đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh chẳng phải nao núng. Thần tiêu dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ, ngăn chặn loại lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải chịu thua. Trong khoảng đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang thất bại trở về.
Ý nghĩa nhân văn: Sống ở đời phải với tâm, yêu dân như con.
Sự tích trầu cau
Chuyện nói rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 4 mang hai anh em rất thương yêu nhau tên là Tân và Lang. Nhưng sau lúc Lang cưới vợ thì bỏ bê em, nên Tân buồn và bỏ nhà ra đi, đi mãi đi mãi tới bờ suối mệt quá rồi tựa vào tảng đá ngủ say và biến thành vôi.
Lang ở nhà đợi mãi ko thấy Tân về nên chứa công đi mua em, tìm mãi tìm mãi không thấy tới bên bờ suối thấy hình bóng Tân nên Lang cứ ở ấy khóc mãi rồi hóa thành cây cau, người vợ ở nhà hay tin chồng đi tậu em và đi sắm chồng rồi cũng hóa thân thành câu trầu quấn quít bên thân cau.
Trầu, cau và vôi lúc quyện lại sở hữu nhau tạo ra sắc đỏ như máu nên sau mang vị vua đi tuần qua đấy, nghe thấy câu chuyện trên mà dạy cho dân ta hãy sử dụng ba thứ vôi, cau và trầu khiến cho biểu trưng nghĩa tình mặn mòi anh em, vợ chồng.
Ý nghĩa nhân văn: Tình vợ chồng, anh em máu mủ thắm thiết, keo sơn, gắn bó.
Sự tích cây khế
Ngày xửa ngày xưa nhà nọ mang 2 anh em, người anh thì hết sức tham lam, người em thì hiền hậu chịu khó. Sau khi cha mẹ khuất người anh lấy vợ ra ở riêng đã vơ vét hết tài sản và chỉ để lại cho người em 1 cây khế ở góc vườn.
Người em được chia tài sản đã ko 1 lời phàn nàn, dựng túp lều sắp cây khế. Hàng ngày, người em chăm bón cây khế và làm thuê kiếm tiền nuôi thân.
Cây khế cứ lớn dần, năm đấy bỗng sai trĩu quả. Bởi thế người em mừng lắm. Một hôm, bỗng dưng với con chim lạ trong khoảng đâu bay tới cây khế và ăn khế của người em. Thấy vậy người em buồn lòng thở than sở hữu chim. Chim lạ đáp lại “Ẳn 1 quả trả cục vàng may túi ba gang có đi mà đựng”.
Mấy hôm sau như lời hẹn chim tới đón người em tới một hòn đảo toàn bộ vàng bạc, châu báu. Người em từ trên cao ngắm nhìn hòn đảo và lấy vàng chỉ đầy túi ba gang rồi cưỡi lên lưng chim trở về. Người em về nhà tiêu dùng số vàng bạc lấy được đổi lấy thóc lúa để viện trợ những người cạnh tranh trong làng.
Thấy vậy, người anh sang chơi và đòi đổi nhà, ruộng vườn của mình để lấy cây khế của người em. Người em 1 lần nữa không kêu ca và đồng ý đổi cho anh.
Năm đó cây khế cũng sai trĩu quả chim lạ cũng tới ăn. Người anh cũng than vãn khóc lóc. Chim đáp lại và hứa hẹn sở hữu đi lấy vàng. Bản chất tham lam, người anh liên bảo vợ may túi sáu gang để đựng được thật rộng rãi vàng.
Mấy hôm sau chim lạ đến đón người anh và đưa người anh đến hòn đảo đầy vàng bạc, châu báu. Người anh đã lấy đầy chặt vàng bạc trên đảo vào cái túi sáu gang mình với đi. Trên đường trở về, vì phải chở phổ quát vàng bạc lại bay ngược gió, chim lạ mỏi cánh. Chim giục người anh vứt bớt vàng đi nhưng người anh khăng khăng ko nghe.
Chim phượng hoàng bực tức, ko chịu nổi sức nặng nó nghiêng cánh hất người anh tham lam cộng vàng bạc xuống biển. Thế là hết đời kẻ tham lam.
Ý nghĩa nhân văn: Anh em phải biết đùm bọc, trợ giúp nhau, phải siêng năng lao động thì mới với thành tựu tốt.
Thạch Sanh Lý Thông
Ngày xửa ngày xưa ở một ngôi làng nọ sở hữu hai vợ chồng ăn ở phúc đức nhưng người vợ mãi vẫn không sinh được con, thương tình Ngọc hoàng gia con trai xuống đầu thai khiến cho con của họ.Không may, 2 vợ chồng mất sớm, để lại Thạch Sanh côi cút một mình sống dưới gốc cây đa và kiếm sống bằng nghề hái củi.
Lí Thông – một người sống bằng nghề cất rượu – thấy Thạch Sanh khỏe mạnh hắn fake vờ kết nghĩa anh em để lợi dụng. Đúng dịp Lí Thông đến lượt phải vào đền cho chằn tinh hung dữ ăn thịt, hắn bèn lừa Thạch Sanh tới nộp mạng thay cho mình. Thạch Sanh đã quả cảm triệt hạ được con chằn tinh bạo chúa. Lí Thông lại lừa cho Thạch Sanh bỏ trốn rồi đem đầu chằn tinh vào nộp cho vua để lĩnh thưởng, được vua phong khiến cho đô đốc.
Nhà vua sở hữu công chúa đến tuổi kén chồng. Nhà vua doanh nghiệp ngày hội kén rể linh đình cho nàng chọn được người nàng toại nguyện nhất. Nhưng ko may, công chúa lại bị đại bàng đồ sộ húi đi. Lí Thông lại nhờ Thạch Sanh thịt đại bàng cứu công chúa, Thạch Sanh xuống hang, giao chiến với Đại bàng và cứu được công chúa nhưng sau lúc đưa được công chúa lên khỏi hang. Lí Thông đã lấp hang để giết thịt Thạch Sanh.
Thạch Sanh giết mổ đại bàng và cứu được con vua Thủy Tề vốn bị đại bàng bắt giam từ lâu. Thạch Sanh được xuống thăm thủy cung, được vua Thủy Tề phong thưởng rất hậu nhưng chàng chỉ xin một cây đàn rồi trở về gốc đa sinh sống.
Lại trò chuyện công chúa, từ khi được Lí Thông đưa về cung thì trùng hợp hóa câm. Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau mưu mô tính kế báo oán Thạch Sanh, làm cho chàng bị oan và bị nhốt trong lao tù . Chàng lấy cây đàn được phong tặng ra gảy, công chúa nghe thấy liền khỏi bệnh câm. Thạch Sanh được vua cho gọi lên. Chàng nhắc lại rõ mọi việc. Vua giao cho chàng xử tội mẹ con Lí Thông. Được chàng tha bổng nhưng hai mẹ con trên đường về đã bị sét đánh chết, hoá kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Các nước chư hầu láng giềng tức giận đem quân sang đánh nước ta. Thạch Sanh lại lấy đàn thần ra gảy cảm hóa bao hận thù của quân giặc. Thạch Sanh khao quân giặc 1 niêu cơm nhỏ nhưng chúng ăn không hết, chúng càng kính phục và ưng ý nhất tề cuốn giáp.
Ý nghĩa nhân văn: Ở đời đừng bày mưu tính kế để hãm hại người khác chuộc lợi cho mình.
Sự tích trái dưa hấu
Ngày xưa, Vua Hùng Vương thứ 18 với nuôi 1 đứa trẻ sáng tạo tuấn tú, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm.
lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại tự thị cho rằng tự sức mình tài hoa mới gây dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ người nào. Lời đề cập này tới tai vua, vua cho An Tiêm là kẻ kiêu bạc vong ân, bèn đày An Tiêm cộng vợ con ra 1 hòn đảo xa, ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hoá, Bắc Việt).
Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh hiu, nhưng An Tiêm thì mặc nhiên nói: “Trời đã sinh ra ta, chết sống là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo”.
2 vợ chồng An Tiêm cùng đứa con đã sống quạnh quẽ ở một bãi cát, trên hoang đảo. Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, với 1 con chim lạ trong khoảng phương tây bay tới đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Được ít lâu, thì hạt nẩy mầm, mọc dây lá cây lan rộng.
Cây nở hoa, kết thành trái lớn. Hầu hết trái vỏ xanh, ruột đỏ. An Tiêm bảo vợ: “Giống cây này bỗng dưng ko trồng mà sở hữu nghĩa là vật của Trời nuôi ta đó”. Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngọt nhạt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đấy mọc lan ra toàn bộ.
một ngày kia, có 1 chiếc tàu bị bão dạt vào cù lao. Mọi người lên bãi cát, thấy với nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đấy, tiếng đồn đi là với 1 giống dưa rất ngon ở trên đảo. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ trang bị và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ ấy mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên hồ hết, cuộc sống giàu có.
Vì chim đã có hột dưa đến từ phương Tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Qua. Người Tàu ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên về sau người ta gọi trại đi là dưa hấu.
Ít lâu sau, vua sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn khảo sát xem gia đình An Tiêm ra khiến cho sao, sống hay chết. Sứ thần về nhắc lại cảnh sống sung túc và thư nhàn của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thầm phục đứa con nuôi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình.
An Tiêm đem về dâng cho vua giống dưa đỏ mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho quần chúng trồng ở các chỗ đất cát, làm cho giàu thêm cho xứ Việt 1 thứ trái cây tăm tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở, được gọi là Châu An Tiêm
Sự tích con muỗi
Ngày xưa, có 1 người nông dân hiền từ tên là Ngọc Tâm, với 1 người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp. Khác hẳn sở hữu tính tình thuần tuý của chồng, lòng vòng năm chú tâm khiến cho ăn, người vợ biếng nhác xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng.
Trong khi 2 vợ chồng tưởng chung sống sở hữu nhau tới răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra chết.
Người chồng đớn đau quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản, tìm 1 dòng thuyền chở áo quan vợ thả rập ràng trên mặt nước.
1 buổi sớm mai thuyền đi tới dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy khiến cho lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng chừng núi, Ngọc Tâm gặp 1 ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đang lần bước. Thấy người mang vẻ đi đầu đạo cốt, đoán chừng là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi tha thiết xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu.
Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm hồi lâu rồi nói:
– Ngươi còn nặng lòng vương vấn thế tục, chưa thoát được vòng tục lụy… Ta mang thể giúp cho ngươi đạt ước vọng song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận!
Ngọc Tâm theo lời vị thần, dở nắp áo quan vợ ra, chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào thi hài Nhan Diệp, thì người đàn bà trong khoảng từ tỉnh ngộ ra, rồi ngồi lên như sau 1 giấc ngủ dài.
Trước lúc từ biệt, vị thần bảo người phụ nữ vừa sống lại:
– Đừng quên nghĩa vụ của người vợ… Hãy xoành xoạch hình dong lòng thương yêu chung thủy của chồng… Chúc cho 2 vợ chồng được sung sướng.
trên phố về quê, người chồng tong tả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền lép bến, Ngọc Tâm lên bờ sắm tậu thức ăn. Trong lúc đấy, sở hữu một cái thuyền buôn to đậu sát bên cạnh, chủ sở hữu là tay doanh nhân phong túc chú ý tới sắc đẹp lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà một mai lệnh cho bạn thuyền dong hết buồm chạy.
Ngọc Tâm quay về thấy mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, sớm hôm đi tìm kiếm, 1 tháng sau mới gặp. Nhưng người phụ nữ đã quen mang lối sống xa hoa bên cạnh tay doanh gia sung túc, quên cả tình cũ nghĩa xưa. Thấy rõ gương mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan Diệp:
– Mình được tự do bỏ tôi song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống lại.
Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa khởi đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.
Người nữ giới nông nổi, phụ bạc chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày đêm đuổi theo Ngọc Tâm, mua phương pháp móc túi ba giọt máu để trở lại làm người. Con vật này xoành xoạch kêu than sở hữu chồng cũ, như van lơn, như oán thù, như thương tiếc, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở gần như, người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần, người ta ko tiếc tay đập cho nó chết.
Ý nghĩa nhân văn: các kẻ vong ân sẽ sớm gặp quả báo.
Sự tích Hòn vẳng phu
Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được 2 mụn con. Năm ấy, đứa to là trai mười 1 tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần 2 vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng thường để 2 con ở nhà, dặn anh trông nom em gái.
một hôm trước khi đi khiến, người mẹ trao cho 2 con một cây mía, bảo con to ở nhà chặt cho em ăn. Đứa anh ở nhà sắm dao chặt mía, ko ngờ khi nó vừa đưa dao lên chặt, thì lưỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra ngất, máu đỏ lênh láng cả một vạt đất. Thấy thế, thằng anh tưởng em gái đã chết, hoảng sợ bèn bỏ nhà mà trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước tuyến đường phiêu lưu, cậu ở nhà này 1 ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, cậu ko biết mình đi những xứ nào, cơm ăn của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, cậu khiến con nuôi một người đánh cá ở miền hải phận Bình Định. Nghề chài lưới giữ chân cậu bé lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Cậu bé đã to, rồi anh kết bạn cùng một cô gái xinh đẹp. Vợ anh cũng thành thục nghề đan lưới. Mỗi khi thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, 2 vợ chồng cảm thấy sung sướng vô hạn.
Hôm ấy biển động, anh nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xõa tóc nhờ anh bắt chấy, đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi 1 mình. Thấy vợ sở hữu một dòng sẹo bằng đồng bạc ở trên tai bên phải, chồng lấy khiến cho kinh ngạc vì bấy lâu nay mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo ko cho 1 ai biết, trong số ấy với cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch loại sẹo. Vợ vui miệng kể: “Ngày đấy phương pháp đây hơn 2 mươi năm, em mới bằng một tẹo đã biết gì đâu, anh ruột của em chặt mía cho em ăn. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại đã trúng em. Em chết giả đi. Sau này, em mới biết khi ấy hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến lúc bố mẹ em về thì mới chạy mua thầy thuốc. May khiến cho sao em vẫn sống để nhìn lại bác mẹ. Nhưng lại mất đi người anh ruột vì anh của em sợ quá đã bỏ trốn. Ba má em cố ý kiếm tìm nhưng tuyệt ko với tin gì. Rồi đó, ba má em thương con buồn rầu quá, bởi thế sở hữu bệnh, kế tiếp nhau từ trần. Phần em, ko mang người nương tựa, lại bị người ta lập kế cướp hết của cải và đem bán cho thuyền buôn. Em không ở im một nơi nào cả, nay đây mai ấy, rút cuộc đến đây gặp anh…”
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng biến sắc lúc biết là lấy nhầm phải em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha me, tin quê quán do vợ nói ra. Nhưng chồng vẫn cố ngăn cản xúc của mình, gói kín sự bí ẩn đau lòng đó lại, không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên ắng, người chồng chở lưới ra biển đánh cá. Nhưng lần này một đi ko bao giờ trở lại. Người vợ ở nhà chờ mong chồng ngày một mòn mỏi. Nàng không hiểu vì sao mỗi khi đánh cá xong, giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền chở về lục địa, thì chồng mình lại dong buồm đi biệt.
Mỗi chiều nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển,con mắt đăm đăm nhìn về phía chân mây mù mịt.Tuy nước mắt bấy giờ đã khô kiệt, nhưng người phụ nữ vẫn không quên trèo núi trông chồng. Hình bóng đó đối sở hữu dân làng thành quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá.
Hòn đá ấy bây giờ vẫn còn trên đỉnh núi ở bên cửa biển Đề Gi, thuộc thị xã Phù Cát, tỉnh Bình Định. Người ta vẫn gọi là đá Trông Chồng hay đá vẳng cu li.
Ý nghĩa nhân văn: Sự thủy chung sâu sắc của người nữ giới dành cho người mình yêu.
Sự tích Chú Cuội CungTrăng
Ngày xưa ở một miền nọ sở hữu 1 người tiều cu li tên là Cuội. 1 Hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu sắm cây mà chặt. Khi tới sắp một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy sở hữu bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông tới vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa khi đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm hoảng hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao.
trong khoảng trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi tới 1 gốc cây sắp chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến Cuội hết sức sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống mua đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc tuyến phố gặp một ông lão ăn xin nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngại ngần, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Nhiệm mầu khiến sao, mớm vừa xong, ông lão đã tỉnh ngộ ngồi dậy. Thấy với cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội chân thành đề cập lại nguồn cơn. Nghe xong ông lão kêu lên:
– Trời ơi! Cây này chính là cây mang phép “cải tử hoàn sinh” đây. Thật là trời cho con để cứu giúp trần giới. Con hãy săn sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
nhắc rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, xoành xoạch nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được hồ hết người. Hễ nghe nói mang ai nhắm mắt nhắm mũi mệnh chung là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết đuối. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội với thêm 1 con vật tinh khôn làm cho bạn.
một lần khác, sở hữu lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến sắm Cuội, nề xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ 1 lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin khiến cho vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống sở hữu nhau thuận hòa, đầm ấm thì thốt nhiên một hôm, khi mà Cuội đi vắng, mang bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội với phép cải tử hoàn sinh, chúng cố gắng chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người phụ nữ vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao lăm lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng khiến thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó mang nghĩa, Cuội bèn nặn thử 1 bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ mang chồng, người có vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng trong khoảng đó, tính tình vợ Cuội bỗng dưng thay đổi hẳn. Hễ nhắc đâu là quên ấy, khiến Cuội lắm khi bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!”. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
1 buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, ko còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển di, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tình cờ bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc ấy thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy xổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây khi đó đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, ko 1 sức nào cản nổi. Cuội cũng khăng khăng ko chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên tới cung trăng.
từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả mẫu cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển sở hữu một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, lúc lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc dòng chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình 1 cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi chiếc hình đấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….
Ý nghĩa nhân văn: Phải thật chu đáo trong những việc quan trọng.
Sự tích Ba Lưỡi Rìu
Xưa với một anh chàng tiều cu li nghèo, ba má anh bệnh nặng nên qua đời sớm, anh phải sống mồ côi ba má trong khoảng nhỏ và tài sản của anh chỉ sở hữu một mẫu rìu. Hàng ngày anh phải xách rìu vào rừng để đốn củi bán để lấy tiền kiếm sống qua ngày. Cạnh bìa rừng sở hữu 1 con sông nước chảy rất xiết, người nào đấy lỡ trượt chân rơi xuống sông thì rất khó bơi vào bờ.
1 hôm, như bình thường chàng tiều cu li vác rìu vào rừng để đốn củi, trong lúc đang chặt củi cạnh bờ sông thì chẳng may dòng rìu của chàng bị gãy cán và lưỡi rìu văng xuống sông. Vì mẫu sông nước chảy quá xiết nên mặc dầu biết bơi nhưng anh chàng vẫn không thể xuống sông để tậu lưỡi rìu. Thất vẳng anh chàng tiều phu ngồi than khóc thở.
Bỗng trong khoảng đâu ấy với một ông cụ tóc trắng bạc phơ, râu dài, đôi mắt rất hồn hậu xuất hiện trước mặt chàng, ông cụ nhìn chàng tiêu cu li và hỏi:
-Này con, con đang mang chuyện gì mà ta thấy con khóc và buồn bã như vậy?
Anh chàng tiều phu tư vấn ông cụ:
-Thưa cụ, cha mẹ cháu mất sớm, cháu phải sống mồ côi từ nhỏ, gia cảnh nhà cháu rất nghèo, tài sản duy nhất của cháu là loại rìu sắt mà bố mẹ cháu trước khi tạ thế để lại. Với chiếc rìu đấy cháu còn vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày, giờ đây nó đã bị rơi xuống sông, cháu không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Vì vậy cháu buồn lắm cụ ạ!
Ông cụ đáp lời chàng tiều phu:
-Ta tưởng chuyện gì to, cháu đừng khóc nữa, để ta lặn xuống sông lấy hộ cháu dòng rìu lên.
Dứt lời, ông cụ lao mình xuống dòng sông đang chảy rất xiết. Một khi sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm một loại rìu bằng bạc sáng nhoáng và hỏi anh chàng tiều phu nghèo:
– Đây với phải lưỡi rìu mà con đã khiến rơi xuống ko ?
Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng bạc thấy chẳng phải của mình nên anh lắc đầu và bảo ông cụ:
– chẳng phải lưỡi rìu của cháu cụ ạ, lưỡi rìu của cháu bằng sắt cơ.
Lần thứ 2, ông cụ lại lao mình xuống dòng sông chảy xiết để tậu dòng rìu cho chàng tiều phu. 1 Khi sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm dòng rìu bằng vàng và hỏi chàng tiều phu:
-Đây sở hữu phải là lưỡi rìu mà con đã sơ sẩy khiến cho rơi xuống sông không?
Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng vàng sáng chói, anh lại lắc đầu và bảo:
-Không phải là lưỡi rìu của con cụ ạ
Lần thứ ba, ông cụ lại lao mình xuống sông và lần này khi lên ông cụ cầm trên tay là cái rìu bằng sắt của anh chàng tiều cu li đánh rơi. Ông cụ lại hỏi:
-Vậy đây sở hữu phải là lưỡi rìu của con không!
Thấy đúng là lưỡi rìu của mình rồi, anh chàng tiều phu reo lên sung sướng:
-Vâng cụ, đây đúng là lưỡi rìu của con, con cảm ơn cụ đã mua hộ con lưỡi rìu để con sở hữu mẫu đốn củi kiếm sống qua ngày.
Ông cụ đưa cho anh chàng tiều phu lưỡi rìu bằng sắt của anh và khen:
-Con quả là người thật thà và chân thực, ko phải say mê tiền bạc và lợi lộc. Nay ta tặng thêm cho con 2 lưỡi rìu bằng vàng và bạc này. Đây là quà ta tặng con, con cứ vui vẻ nhận.
Anh chàng tiều phu vui vẻ đỡ lấy 2 lưỡi rìu mà ông cụ tặng và lạy tạ. Ông cụ hóa phép và biến mất. Khi đấy anh chàng tiều phu mới biết rằng mình vừa được bụt trợ giúp.
Ý nghĩa nhân văn: Người có đức tính trung thực thì luôn gặp điều thấp đẹp.
Mong là các câu chuyện mà mình giới thiệu trên đây sẽ trở nên các kí ức tuổi thơ cuốn hút nhất mang mỗi người, rằng chúng ta đã mang 1 tuổi thơ bên ông bà, bác mẹ yên ả như thế. Để dù sau này mang đi đâu xa thì vẫn luôn nhớ về gia đình, bác mẹ như nhớ về các câu chuyện cổ tích mà thuở nhỏ ta vẫn thường nghe.