Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Phạm Tiến Duật

Bạn đang truy cập website Khiphach.net cùng chúng tôi xem bài viết sau Phạm tiến duật

1. Cuộc đời của Phạm Tiến Duật:

1.1. Quê quán của Phạm Tiến Duật:

Phạm Tiến Duật sinh ra tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cha ông là giáo viên dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ ông là một nông dân không biết đọc biết viết.

Khoảng eight giờ 50 phút ngày 4-12-2007, ông qua đời tại Bệnh viện Quân y 108 vì căn bệnh ung thư phổi.

1.2. Tóm tắt cuộc đời của Phạm Tiến Duật:

Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 nhưng quyết định không theo nghề dạy học mà nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên đường Trường Sơn, nơi ông cũng đã viết nhiều bài thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Trong thơ Phạm Tiến Duật, tất cả những hình ảnh đều thể hiện được sự ác liệt, tàn khốc của cuộc chiến, nơi mà từng giây khắc đều phải đối mặt với một kẻ thù có ưu thế hơn hẳn về kĩ thuật, vũ khí, và thường làm chủ trên không. Tuy nhiên, ông không dừng lại ở đó mà còn đưa ra những tầm nhìn khái quát, thể hiện được tâm hồn Việt, tính quật khởi của dân tộc, mỗi khi cả dân tộc lại cùng nhau đứng dậy, liên kết thành sức mạnh của Cuộc chiến tranh nhân dân, với mục tiêu thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, thu biên cương về một mối. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở thơ Phạm Tiến Duật đó là ông đã tránh được điều mà nhiều người cầm bút hạn chế khi họ chỉ phản ánh được một mặt của cuộc chiến. Phạm Tiến Duật đã khắc họa được chân dung đa diện của con người Trường Sơn, từ những người coi kho tới công binh, thanh niên xung phong, chiến sĩ cao xạ, những chiến sĩ lái xe và nhiều thành phần khác nhau. Chính điều đó đã làm tăng thêm sự lan tỏa của thơ anh, không chỉ dành cho nơi mặt trận mà còn lan tỏa trong một bộ phận không nhỏ công chúng, kể cả tầng lớp trí thức hồi bấy giờ, nhất là giới hoạt động văn nghệ.

Sau khi chiến tranh kết thúc, ông trở về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam và sinh sống tại Hà Nội. Ông còn là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam và dẫn chương trình của chương trình Vui – Khỏe – Có ích trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam trong những năm đầu lên sóng.

Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012.

Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.

2. Phong cách sáng tác của Phạm Tiến Duật:

Phạm Tiến Duật là một nhà thơ có đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn chương Việt Nam, đặc biệt là trong thể loại thơ. Phần lớn các tác phẩm thơ của ông được sáng tác trong thời gian ông tham gia quân ngũ và tập trung vào việc miêu tả hình ảnh thế hệ trẻ tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, thông qua các hình tượng của người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

Sáng tác thơ của Phạm Tiến Duật được đánh giá cao bởi các nhà văn khác nhờ vào giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có một chút “tinh nghịch” đặc trưng nhưng cũng rất sâu sắc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng, trong đó có bài “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” được phổ nhạc thành bài hát và trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Khi đọc những bài thơ của Phạm Tiến Duật, ta có thể thấy được nhiều mặt của con người Trường Sơn, từ những người coi kho tới công binh, thanh niên xung phong, chiến sĩ cao xạ và những chiến sĩ lái xe dũng cảm. Bằng những câu thơ sống động, ông đã khắc họa được từng cá thể, từng tình huống trên con đường Trường Sơn. Điều đó đã làm cho thơ của ông trở nên rất gần gũi với đời sống và càng lan tỏa ra xa hơn. Những người lính, từng là những nhân vật trong bài thơ, đã nhận ra chính họ trong đó và điều đó đã giúp cho thơ Phạm Tiến Duật trở thành một sinh thể sống động, sống mãi cùng với con đường Trường Sơn.

Khi chiến tranh đã kết thúc, những bài thơ của Phạm Tiến Duật vẫn tiếp tục ám ảnh, chứa đựng bao tình sâu nghĩa nặng về đồng đội của ông. Những bài thơ viết về tiếng chuông chùa ở Thái Bình hay về những manh áo màu xanh cũ, vẫn đầy xúc động và tình yêu thương. Chúng gợi nhớ đến những cuộc chiến đầy hy sinh và mất mát, nhưng vẫn mang trong mình một tinh thần vĩ đại và đau đáu của một thời đã xa.

3. Sự nghiệp sáng tác của Phạm Tiến Duật:

Phạm Tiến Duật tham gia chiến đấu trong vai trò phóng viên mặt trận, trực tiếp chứng kiến sự tàn bạo, sự hy sinh, nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần của những người lính trong những năm tháng đầy khốc liệt và ác độc của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Với cảm nhận này, ông đồng thời là một người bên trong và bên ngoài cuộc chiến tranh.

Trong khi ở trong cuộc, ông đã tiếp cận được với những tài liệu và trải nghiệm đời thực tại chiến trường. Trong khi ở ngoài cuộc, ông được trang bị với những lãng mạn và ảo mộng của một nhà văn trí thức. Cả hai yếu tố này đã cùng nhau tạo nên những khoảnh khắc đặc biệt cho ông trong những bài thơ mà ông đã viết ra trong thời gian đó. Những bài thơ của Phạm Tiến Duật mang trong mình hơi thở của một thời đại, đầy nghị lực, cứng cỏi và kiêu hãnh như người lính chiến trường chống Mỹ. Những bài thơ của ông cũng sở hữu sức mạnh của một đại đội quân đầy khí thế bất khuất. Ngoài ra, những bài thơ của ông còn mang trong đó những cảm xúc sâu sắc, thấm vào tận đáy lòng của những chàng trai, cô gái chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn, làm cho người đọc không kìm nổi nước mắt.

Phạm Tiến Duật đã trải qua những ngày tháng đẹp nhất của cuộc đời mình tại Trường Sơn. Nhà thơ đã thốt lên rằng, việc ông tham gia vào cuộc chiến ác liệt của quân và dân ta trên tuyến đường Trường Sơn là một cuộc phiêu bạt lớn của số phận. Chỉ khi bước chân tới đây, ông mới thấu hiểu và ghi nhận được vẻ đẹp cũng như sức mạnh của thời đại mình qua hình ảnh rất cụ thể của những chiến sĩ lái xe quả cảm, cô thanh niên xung phong, những người tư lệnh, người mẹ Pa Cô, Vân Kiều… Những con người này đã trở thành cát-xê của tác phẩm thơ của ông.

Trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, Trường Sơn đã trở thành tựu trung của mọi tựu trung. Với những gì đã trải qua và chứng kiến, Phạm Tiến Duật đã nhận được một kho báu từ những trải nghiệm tuyệt vời tại đây. Ngược lại, ông đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người khác khi viết về Đường Trường Sơn. Tác phẩm thơ của ông trở thành cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính, những chiến sĩ công binh mở đường và nhiều nhân vật khác. Mỗi chiến sĩ Trường Sơn, rộng hơn, cả dân tộc thời ấy đều soi thấy mình trong câu thơ của ông. Tác phẩm thơ của ông đã truyền tải thông điệp về lòng yêu nước, tình đồng đội và lòng dũng cảm, tạo nên một kết nối đặc biệt giữa những người đã trải qua Trường Sơn và những người chưa từng đặt chân tới đây.

Phạm Tiến Duật đã xuất bản nhiều tập thơ, bao gồm “Vầng trăng – Quầng lửa” (1970), nổi tiếng với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “Ở hai đầu núi” (1981), “Vầng trăng và những quầng lửa” (1983), “Thơ một chặng đường” (1994), “Nhóm lửa” (1996), “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” (1997), và “Tuyển tập Phạm Tiến Duật” (2007), được in xong đợt đầu vào ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng. Tập thơ và trường ca này đã được trao Giải thưởng Văn học 2007 của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân. Ngoài ra, ông còn viết tập tiểu luận “Vừa làm vừa nghĩ” (2003).

Các bài thơ nổi tiếng của Phạm Tiến Duật bao gồm “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”, “Tiểu đội xe không kính”, “Nhớ”, “Vòng trắng”, “Gửi em cô gái thanh niên xung phong”, và “Lửa đèn”. Tuy nhiên, bài thơ “Vòng trắng” đã gây ra tranh cãi khi được đăng trên tạp chí Thanh niên và bị tạp chí Học tập số 9 năm 1974 phê phán homosexual gắt.

Phạm Tiến Duật được tôn vinh là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”, và “ngọn lửa đèn” của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.

You might also like